[Novel] Khúc Hát Giữa Mùa Hè - Chương 0

Chương 0
Trans: Agnes
———
Bản dịch này thuộc quyền sở hữu của LoppyToon. Chúng mình đã mua raw và dịch để mang đến cho các bạn nội dung hoàn toàn miễn phí, rất mong các bạn tôn trọng công sức của nhóm.
———
Lời mở đầu.
Tôi đã đến Muyeong trong mùa hè. Con đường đất chưa trải nhựa, những bụi cỏ dại mọc um tùm trải dài vô tận, mảnh đất có rễ hành tây trông như một bãi cỏ, cùng những mái nhà thấp màu đỏ hoặc xanh lam.
Ngực tôi như được khai thông, nhưng đồng thời lại nặng nề đến nghẹn thở. Tôi – kẻ thất bại – đã trôi dạt về tận đây. Chính xác thì phải gọi là “quay về” mới đúng.
Tôi ghét câu “chiếc khuy đầu tiên quan trọng” lắm. Người ta bảo, chỉ cần cài sai chiếc khuy đầu tiên, thì mọi khởi đầu, mọi mối quan hệ, mọi tình huống đều sẽ trượt đi một nấc, để rồi sau cùng trở nên lố bịch.
Tôi chính là kẻ đã cài sai chiếc khuy đầu tiên. Người con gái đầu tiên tôi yêu, lại chẳng chọn tôi, mà chọn chiếc khuy dưới tôi. Còn người đàn ông đầu tiên mà tôi yêu thì đã sớm có “chiếc khuy đầu tiên” từ trước. Tôi chưa từng, một lần trong đời, khớp đúng với bất kỳ ai. Vậy nên, tôi buộc phải căm ghét câu nói ấy. Bởi với tôi, nó chính là sợi chỉ xuyên suốt cả cuộc đời.
Muyeong là nơi bắt đầu. Nơi khởi đầu của cái gọi là “cuộc sống”. Nơi khởi đầu của cái gọi là “thường nhật”. Thế nên tôi gọi nó là quê hương. Dù tôi không sinh ra ở đây, dù cả mẹ và người đã sinh ra mẹ cũng chẳng có gốc gác gì nơi này. Nhưng khi bước chân đầu tiên đã lạc lối, thì “quê gốc” cũng chẳng còn nghĩa lý. Đời tôi vốn đã méo mó, thì cái gọi là “quê thật sự” cũng rối tung, nên tôi xóa sạch.
Thế nhưng, không có nghĩa là tôi yêu Muyeong. Muyeong nơi tôi lớn lên là một vùng quê tĩnh lặng, tầm thường, già nua. Ở ngôi làng này, nếu người trẻ nhất cũng đã ngoài 50 – là bà Lee Yeong Suk, chủ tiệm tạp hóa Muyeong – thì đã đủ hiểu. Một nơi chẳng có gì đáng xem. Mỗi lần tôi nói muốn rời đi, bà Yeong Suk lại bảo.
‘Mẹ mà cũng bỏ đi, thì mấy ông bà cụ trong làng còn phải lặn lội đi xa chỉ để mua một cuộn giấy vệ sinh đấy.’
Người khác có phải đi xa hay không thì liên quan gì? Tại sao mẹ tôi, tôi và em trai phải bị trói chặt đời mình ở Muyeong này? Tại sao mẹ tôi vẫn cố chấp bám lại nơi đây? Tôi chưa từng một lần đòi hỏi câu trả lời.
Chỉ biết rằng, tôi và em trai đã bỏ lại người mẹ đứng trơ như gốc cây, rồi chạy trốn. Một người thà chăm lo cho tiện ích của cả làng còn hơn nghĩ đến cuộc đời con cái – thì làm sao tôi có thể thắng hay thấu hiểu được chứ?
Tôi dừng lại để lấy hơi. Từ Seoul về đến Muyeong mất hơn nửa ngày, nhưng cảm giác như còn lâu hơn thế. Muốn tới Muyeong, phải băng qua thị trấn nghèo nàn đến nực cười, rồi tiếp tục len lỏi qua những khúc quanh, đi bộ thêm một chặng dài.
Chỉ nghĩ đến việc sẽ phải ở lại cái nơi tẻ nhạt này dăm ba tháng đã thấy ngột ngạt. Cơ thể mệt mỏi rã rời, mắt mờ tối lại như thể việc liều lĩnh quay về đây là một sai lầm. Tôi thoáng nghĩ, hay là quay lại? Giờ vẫn chưa muộn. Dù sao tôi cũng chẳng nói cho ai biết là mình sẽ về mà.
“Cháu là Do Kyung phải không?”
Người đang đi tới – In Yeong – cất tiếng gọi.
“…Vâng. Chào bà, bà khỏe không ạ.”
“Aigoo, gặp cháu thích thật đấy.”
Phải rồi. Muyeong sẽ chẳng bao giờ để tôi rời đi trong yên bình. Suốt mấy năm trời tôi hát đi hát lại điệp khúc rằng sẽ lên Seoul sống, nhưng mẹ chỉ cười nhạt, chẳng buồn quan tâm. Ngay cả khi tôi được điểm cao trong kỳ thi đại học, bà cũng chẳng lấy làm vui.
“Có phải mẹ ước con cả đời sẽ ở lại đây, cùng mẹ trông cái tiệm tạp hóa này?”
Trước sự im lặng của Yeong Suk, tôi đã gằn giọng bảo “Mẹ đừng mơ.” Tôi chưa từng, một lần nào, thấy yêu mến cái xó quê nhàm chán này.
Thế là tôi lén nộp hồ sơ vào một trường đại học ở Seoul và nhận được thư báo đỗ. Bà chưa từng chúc mừng. Ngược lại, còn lạnh nhạt hơn trước. Và tôi đã thu xếp đồ đạc, bỏ đi. Từ đó đến nay, số lần tôi quay lại nơi này có thể đếm trên đầu ngón tay.
Rẹttt… rẹttt. Chiếc vali từng lăn trên nền gạch nhẵn hay sàn xi măng láng bóng, giờ bị xóc nảy trên con đường gồ ghề, nhanh chóng rệu rã. Chặng đường phía trước còn dài, bánh xe như gào thét oán than.
“…Nóng quá.”
Tôi lau mồ hôi lăn dài trên thái dương, cảm nhận đôi môi khô khốc, rồi bước nhanh hơn. Tôi chỉ muốn mau chóng mở cái tủ đông cũ kỹ, vặn nắp chai nước suối nửa đông nửa lỏng, để dòng nước lạnh thấm xuống cổ họng bỏng rát.
“Lần này về hẳn hả cháu?”
“Không ạ, chỉ là… tạm thời thôi.”
“Vậy à. Thế thì Yeong Suk mừng lắm đây. Giờ cháu về nhà phải không? Nếu về thì nhắn Joon tối nay ghé sang, xem phim rồi ăn bingsu nhé.”
“À, vâng ạ.”
“Lát nữa Do Kyung cũng qua nhé.”
“…Vâng.”
“Đây, vừa hái từ ruộng về. Để tối đem ra ăn nhé.”
Tôi nhận ra đó không phải ảo giác, nhờ mấy trái ớt được dúi vào tay.
“Không cần đâu ạ…”
Nhưng bàn tay tôi đã bị nhét chặt. Tôi ngẩn ngơ nhìn theo dáng người khuất dần. Cảnh vật vẫn y nguyên, chẳng khác nào bộ phim cũ mà tôi đã xem đến khi băng video mòn rách.
Muyeong thuở nhỏ và Muyeong sau hàng chục năm – hệt như tờ giấy vẽ bị gập đôi, vẽ cùng một bức tranh. Dù thời gian có trôi, nơi đây vẫn như một bức họa đối xứng, chẳng đổi thay.
Người ta bảo ký ức lâu bền thường gắn liền với mùi hương. Khi cảnh sắc hòa cùng âm thanh, nhiệt độ và mùi vị, nó sẽ trở thành ký ức khó phai. Với tôi, Muyeong là màu xanh thẫm, là những mái nhà quê mùa, là những cụ già ngồi ngủ gật dưới nắng, là mùi cơm niêu nghi ngút. Một mùi hương mộc mạc, thanh thuần.
Trớ trêu thay, thứ từng khiến tôi ngán ngẩm, chỉ vì xa cách lâu ngày, giờ đây lại được tô vẽ bằng một lớp hào quang. Chính vì thế, tôi cố tình chỉ nhìn xuống đất khi bước đi, không muốn để ký ức ngọt ngào xen vào tâm hồn sần sùi này.
Tôi phải tự nhắc mình. Niềm vui chỉ là thoáng qua, còn sự nhàm chán là muôn đời. Ngôi làng này trông có vẻ bất biến, nhưng thực chất đang mục ruỗng từng ngày.
Vừa đặt chân về đã bị giao việc vặt. Bà cụ lại tiếp tục con đường mình. Tôi cũng cất bước. Tôi không buồn tò mò Joon là ai. Có lẽ là người vừa chuyển đến gần tiệm tạp hóa, hoặc một trong những cụ già vẫn hay tụ tập trước tiệm.
“Ồ, đã có đèn đường rồi này.”
Hóa ra cũng có chút thay đổi. Lác đác vài cột đèn cao. Nhưng trời còn sáng, nên không biết chúng có hoạt động tốt không. Đêm làng quê tối mịt, ngay cả người thông thạo đường đi cũng đôi khi trượt chân ngã xuống ruộng. Hy vọng những cột đèn này không chỉ dựng lên cho có.
Đi thêm một quãng, tấm biển cũ kỹ của “Tạp hóa Muyeong” hiện ra. Tôi dừng lại. Dưới nắng hè gay gắt, có người đang ngồi trên chiếc phản trước cửa tiệm, tay mơn man vuốt ve chú chó của làng.
Chiếc phản trước cửa tiệm tạp hóa luôn là nơi gặp gỡ. Hôm nay, cảnh tượng lại khác. Thay vì mấy ông lão đánh cờ hay mấy bà cụ ngồi tán chuyện, thì trên đó là một dáng hình xa lạ.
“Đi du lịch à? Uống chút nước đi.”
Trên chiếc phản thấp trải tấm bạt vàng quen thuộc, một người đàn ông trẻ ngồi vắt chân. Sóng mũi cao thẳng nổi bật dưới cặp kính râm. Khi thấy tôi đứng nơi cửa, anh ta buông một câu.
“Nước thường 500 won, nước đông lạnh 600 won.”
Tôi bất giác chết lặng nhìn chằm chằm. Biết rõ là thất lễ, nhưng không sao rời mắt được. Bất cứ ai lướt qua, chắc chắn cũng sẽ ngoái lại. Một vẻ ngoài khiến người ta không thể không nhìn lần thứ hai.
Anh ta che nửa gương mặt bằng cặp kính râm, nhưng phần còn lại phơi bày hết thảy, như muốn khẳng định rằng mình sinh ra là để nổi bật. Ở Seoul – nơi người đông như kiến, thậm chí cả trong đài truyền hình – nơi tụ hội toàn kẻ tự cho là “xuất chúng”, cũng khó mà tìm thấy một người như vậy.
“Lấy cho chị nhé?”
“…”
Có lẽ thấy tôi bất động quá lâu, anh ta đưa tay vẫy ngay trước mặt.
“…Thứ nước đông lạnh kia đắt hơn nhỉ.”
“Chị cũng phải nghĩ đến tiền điện chứ. Tôi đâu có đào đất mà ra tiền đâu.”
Tới lúc ấy tôi mới hoàn hồn. Bị cuốn vào khí chất lạ lùng kia, vào sóng mũi cao, vào chiếc cằm đẹp đẽ, đến nỗi chẳng buồn để ý quần áo anh mặc: chỉ là áo thun trắng trơn tay ngắn với quần thể thao thôi.
“Thế nào? Lấy cho chị nhé?”
Anh ta đứng lên. Tôi đã ngờ rằng dáng vóc anh ta cao lớn, nhưng đến khi đứng thẳng, trông còn đồ sộ hơn. Vai rộng, nước da trắng, dáng người dài miên man.
Tôi không đáp, mà chỉ dựng chiếc vali vào một góc rồi bước vào bên trong. Chẳng lẽ mẹ tôi đã bán tiệm tạp hóa này mà không nói gì sao? Bà chưa từng thuê nhân viên, vậy nên chắc chắn anh ta không phải người làm thêm. Hơn nữa, ở chốn quê mùa này thì lại càng không thể có chuyện một chàng trai trẻ tới đứng bán hàng được.
Tạp hóa cũ kỹ, thấp bé ấy hầu như không có gì đổi khác. Tôi khẽ nghiêng đầu khi thấy mấy cây nến thơm, vốn chẳng phải gu của mẹ. Ngược lại, vòng muỗi dở dang ở cửa ra vào mới đúng là dấu tay bà.
Chuyện gì thế này… Thở dài, tôi mở tủ đông, lấy ra một chai nước suối đã đông đá. Từ khi nào anh ta bước theo, giật lấy chai nước trên tay tôi.
“Vặn nắp hộ cũng tính 600 won. Rẻ đấy nhé. Đây mới là tình làng nghĩa xóm kiểu nông thôn đó nha.”
Tôi biết, nước đá vốn khó vặn nắp.
“Chị làm thế là đúng rồi. Tiết kiệm được 100 won thì thành giàu chắc? Mua nước đã bị mùa hè hâm nóng thì có khác gì uống lửa. Tôi mà bán thứ đó thì lương tâm cắn rứt, đêm về chẳng ngủ nổi.”
“‘Nước mùa hè’?”
Anh ta chìa chai nước vừa vặn mở, hất cằm ra hiệu. Tôi ừng ực nuốt dòng nước lạnh buốt, miệng lưỡi và cổ họng tê dại. Cuối cùng mới thấy đúng là mùa hè.
Seoul đôi lúc giống như phim trường giả vờ hóa thân thành mùa hè. Nơi ấy mỗi năm đều chịu đựng cái nóng đêm nhiệt đới khủng khiếp, thế mà chẳng mấy khi cảm nhận được cái “vị mùa hè” thực sự.
Chỉ có sau khi tắm xong, ngồi uống ly bột ngũ cốc lạnh; hay khát khô cổ, lao vào một quán cà phê bất kỳ, nốc ly cà phê đá; hoặc tối trời sau cơn mưa, vào quán gà rán đã bớt hầm hập để làm một vại bia; hay cắn ngập răng vào trái cây đúng mùa… mới thấp thoáng chạm đến hương vị mùa hè.
“Ở đây, người ta gọi nước ấm ấm đó là ‘nước mùa hè’.”
Tôi lau môi còn ướt, nhìn sang anh. Đây là lần đầu tôi nghe từ ấy. Từ khi nào người ta bắt đầu gọi như thế vậy?
“Giờ thì tính tiền thôi.”
Anh bước vào quầy tính tiền chật hẹp, xoay chiếc quạt máy ọp ẹp về phía tôi. Tôi bèn lục túi.
Mẹ tôi vốn là “chủ nhân thường trực” của cái quầy chỉ rộng chừng một mét vuông ấy. Bà ngồi xem tivi, gật gà gật gù, đôi khi lại ăn vội bát cơm chan nước. Vậy mà giờ không thấy bóng dáng bà đâu, chỉ có một thanh niên lạ mặt ngồi chèo kéo khách. Tôi chợt đoán, có lẽ mẹ đã giao cho ai đó trông tạm, hoặc thật sự đã bán đi.
“Cậu… đã mua lại chỗ này rồi sao?”
Tôi vừa hỏi, vừa chìa tờ nghìn won ra. Anh chỉ lẳng lặng trả lại tiền thừa mà chẳng đáp lời. Phong thái ấy cho thấy không phải tay mơ, càng khiến giả thuyết “mẹ đã bán hẳn” có thêm cơ sở.
Tôi thoáng nghĩ: một người như anh, mà lại đứng đây bán “nước mùa hè” – chẳng phải phí phạm quá sao? Đáng lẽ nên khuyên anh lên Seoul, đi đâu cũng tỏa sáng. Nhưng rồi tôi nuốt lời. Chẳng việc gì phải tự dưng can dự.
Quay lưng đi, tôi vẫn nghĩ mãi ‘tại sao bên trong tiệm chẳng hề thay đổi?’ Thời nay giới trẻ còn cố tình để nguyên tường bong tróc hay mái chưa sơn, gọi đó là phong cách retro. Biết đâu anh ta cũng vậy, nên không sửa sang gì cả.
Mà thật ra, thế mới gọi là “chuẩn retro”. Vì thường thì mấy nơi nửa vời, pha trộn giữa cũ và mới, tạo ra thứ không ra gì. Còn chỗ này, đúng là cũ thật, nhưng cũ được gìn giữ, cũ được lau chùi, thành ra lại tinh tươm.
“Nhưng mà, nơi này vốn là-”
“Vậy đi thong thả nhé.”
Anh xoay đầu quạt sang hướng khác, rõ ràng tỏ ý chấm dứt cuộc trò chuyện. Tôi nghẹn lời, gọi điện cho mẹ nhưng chỉ nghe tín hiệu đổ chuông dài. Rõ ràng anh cũng muốn tôi biến nhanh cho rồi.
Tôi định chất vấn “Đây là cửa hàng của mẹ tôi, sao cậu lại ở đây?” Nhưng rồi bỏ. Đòi hỏi lời giải thích từ một kẻ xa lạ, trong khi chính tôi còn chẳng chịu quan tâm mẹ mấy khi, chẳng phải nực cười sao.
Tôi biết anh ta đang nhìn tôi. Dù mắt bị che bởi kính râm, nhưng đầu anh vẫn hướng về phía tôi, ánh nhìn chẳng lạc đi nơi khác.
Tôi cũng len lén ngó lại. Từ anh toát ra một thứ khí chất khiến người ta khó mà lại gần. Khi cất lời và khi im lặng là hai dáng vẻ hoàn toàn khác. Dù lúc nói chuyện đã thấy khó đoán, nhưng khi lặng thinh thì càng khó tiếp cận.
“Vậy thì đi thong thả nhé.”
Tôi còn đang ngắm chiếc cằm sắc sảo của anh thì câu nói cắt ngang.
“Không thể ở lại thêm chút sao?”
Tôi giật mình, lắp bắp đáp.
“Không phải không được… Nhưng tại sao chị lại không đi?”
“…Vì mẹ tôi không bắt máy. Tôi cần phải nói chuyện với bà ấy.”
“…”
“Tôi cứ nghĩ, gặp nhau ở đây là lẽ đương nhiên.”
Anh thở khẽ, rồi bước lùi vào phía trong.
“Vào đây ngồi đi.”
“…”
“Nóng nực quá mà.”
Anh chìa duy nhất chiếc quạt, rủ tôi cùng hứng gió. Dẫu là gió nóng, nhưng vẫn còn hơn không, nên tôi ngồi xuống bên cạnh mà chẳng do dự.
Quạt rung lên cọt kẹt, ve sầu râm ran. Hai người ngồi song song, cùng nhìn thẳng phía trước.
Anh với tay bật chiếc ti-vi nhỏ. Màn hình lập tức chiếu một bộ phim cũ – chính bộ phim đã đưa một diễn viên nam lên hàng ngôi sao vài năm trước. Người ta bảo, chỉ nhờ vẻ ngoài và lối diễn xuất của anh ta mà một kịch bản tầm thường mới được kéo lên.
“Chậc.” Anh nhăn mặt, vội tắt. Chắc ghét bộ phim đó lắm.
“Phiền quá. Cứ lâu lâu lại phát lại.”
Anh lầm bầm. Mà nhìn kỹ, anh ta… cũng có chút giống diễn viên nam kia. Tên gì nhỉ, hình như…
“Cậu có dùng SNS hay gì không?”
Tôi đang vắt óc nhớ tên diễn viên thì bị cắt ngang, đành quay đầu lại.
“Để làm gì?”
“Chỉ hỏi thế thôi.”
Một câu trả lời nhạt nhẽo. Tôi cũng chẳng buồn đáp lại cho tử tế. Và rồi bất chợt nhớ ra tên của anh ấy. Người mà đài phim truyền hình, Chungmuro, ai ai cũng khao khát có được. Cái tên luôn đứng đầu danh sách casting, nên bất kỳ kịch bản nào cũng được gửi tới trước tiên.
Người ta bảo anh ấy làm việc như trâu bò, thế mà tôi chưa từng một lần cộng tác. Kịch bản của tôi nhiều lần bị loại, vậy nên khi đạo diễn nào đó lớn tiếng tuyên bố sẽ mời anh ấy đóng, tôi cũng chẳng mong chờ. Dù sao cũng sẽ bị gạt thôi. Anh ấy có con mắt tinh đời, chỉ cần liếc qua đã biết đâu là kịch bản có thể thành công. Khó ưa, nhưng đúng là sáng suốt.
“Anh trông giống Do Joon lắm.”
Người đàn ông khẽ cười. Tôi mặc kệ anh ta, trong đầu chỉ toàn nghĩ tới Do Joon. Đến mức cái biệt danh trong giới là “bác sĩ”. Mà không phải bác sĩ thường, mà là danh y. Bởi vì bất kỳ kịch bản nào thất bại, chỉ cần vào tay anh ấy thì cũng sống lại.
Do Joon chưa từng đưa kịch bản của tôi vào tầm ngắm. Tôi từng cay đắng, nhưng rồi cũng hiểu. Bởi anh ấy biết, có những thứ – như những gì tôi viết – vốn dĩ chẳng thể cứu vãn.
Tôi ghét những tác phẩm của chính mình. Chán ngấy những lời tâng bốc như “có giá trị nghệ thuật”, “có fan trung thành”, “cứ thế mà làm tiếp đi”, “cô đang dần tạo chỗ đứng rồi đấy.”
Họ chỉ nói thế thôi. Rằng “có giá trị nghệ thuật, nhưng thiếu một cú knock-out”, “có phần hơi nhạt nhòa”, “bây giờ người ta thích cái gì kích thích cơ”. “Cô cũng biết mà, muốn được đầu tư thì phải thế.”
“Nghe nói tôi giống anh ta à? Nhiều người bảo vậy.”
Tôi chớp mắt, không hiểu.
“À, ra thế ạ.”
Thật khó chịu khi anh ta thản nhiên nhận luôn, chẳng hề khiêm tốn. Nhưng nghĩ lại thì… có thật. Giống đến mức nếu ai bảo là anh em sinh đôi, tôi cũng tin. Có lẽ chỉ cần bỏ cặp kính râm kia xuống là sẽ thấy khác biệt thôi.
“Nhưng thú thật, tôi còn hơn anh ta mà đúng không?”
“Ít khi người thường lại hơn được một ngôi sao đâu.”
Anh ấy là ngôi sao hàng đầu của đất nước này. Hơn nữa còn nổi tiếng là vừa đẹp trai, vừa diễn giỏi.
“Cả mấy bác mấy cô trong làng cũng thế. Ai cũng bảo ‘cậu chủ tiệm tạp hóa’ này còn hơn.”
Nếu không phải Do Joon, tôi hẳn đã cười nhạt rồi bỏ qua. Với bất kỳ ai khác, tôi chắc sẽ vặc lại “Làm sao mà sánh với Do Joon được.”
“Joon à, con lại bày đồ ra định đi đâu hả?”
Từ cửa đang để mở, một giọng nói quen thuộc vang lên.
“Bắt quả tang rồi nhé, dì ơi.”
Người đàn ông đối đáp lại Yeong Suk, dù bà còn chưa lộ diện. Vừa xoay đầu lại, tôi thấy mẹ bước vào.
“Đã lần thứ hai rồi đấy. Hễ thấy cái vali to là y như rằng mặt mày dì rạng rỡ hẳn lên.”
“Này, dì cười hồi nào chứ.”
“Con còn trông cả tiệm giúp, thế mà suốt ngày đuổi đi không được thì khó chịu lắm hả?”
Mẹ cười nhạt, rồi quay sang tôi, chào đón hệt như mới gặp hôm qua “Về rồi à?” Bình thản. Vẫn như trước, người duy nhất ngượng ngùng, ngó chừng lại chỉ là tôi.
“Cô ấy là ai vậy dì?”
Người đàn ông liếc tôi, hỏi nhỏ.
“Con gái dì.”
“À… cái đứa con gái chẳng bao giờ nghe lời ấy hả.”
Mẹ khẽ kéo cổ áo, quạt mát. Anh ta liền với tay xoay chiếc quạt máy về phía mẹ. Cánh tay trắng trẻo, rắn chắc thoáng qua ngay trước mặt tôi. Trên người không hề vương mồ hôi, chỉ có hương xà phòng mát lạnh.
“Cậu là ai vậy?”
Lần này là tôi hỏi. Khoảnh khắc im lặng phủ xuống. Mẹ nhếch môi “Nhìn là biết chứ gì.” Tôi quay sang. Anh ta cũng thờ ơ đáp lại.
“Chào nhé, Do Kyung à. Tôi là em trai chị.”
“…”
“Mới được nhận nuôi cách đây không lâu.”
Lời nói vô lý đến mức tôi bỏ ngoài tai, chỉ nhìn sang mẹ. Thế mà bà lại cười khoái trá, như thể câu nói vớ vẩn kia rất thú vị.
“Tưởng mẹ bán cửa hàng này rồi.”
Tôi lẩm bẩm, định đứng lên. Nhưng bỗng khựng lại. Mẹ vừa gọi anh ta là Joon. Vừa hỏi: “Con lại bày đồ ra định đi đâu hả?” Một khuôn mặt chẳng phải người thường, đẹp như tượng tạc. Lại vừa rồi còn hỏi tôi: “Nhưng thú thật, tôi còn hơn anh ta mà đúng không?” Một kẻ bình thường đâu thể thốt ra câu tự mãn như thế. Tôi sững người, quên cả chớp mắt. Anh ta kéo kính râm xuống sống mũi, để lộ đôi mắt sắc bén, rồi hỏi khẽ.
“Muốn tôi ký tặng cho không?”
Anh ta chính là Do Joon!